LINH ĐẠO DÒNG PHAN SINH TẠI THẾ (OFS) SỐNG PHÚC ÂM ĐỨC GIÊSU KITÔ-ĐI TỪ PHÚC ÂM ĐẾN CUỘC SỐNG-VÀ TỪ CUỘC SỐNG ĐỀN PHÚC ÂM

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

ANH EM LÀ ÁNH SÁNG TRẦN GIAN



                                         
 (Mt.5,13-16)

13 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. 14 “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. 15 Cũng chẳng có ai thắp thắp đèn rồi lại để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. 16 Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

Chúng ta ai cũng biết muối rất cần thiết cho cuộc sống ,là vì muối có vị mặn. Muối mà không có vị mặn thì muối không còn là muối ! 

Chúng ta hãy tưởng tượng một ngày nào đó, nước trong mọi đại dương bổng trở thành nước ngọt như mọi dòng sông, và các mỏ muối đã bị con người khai thác cạn kiệt, lúc ấy chiến tranh giành nhau về mỏ muối không thua gì chiến tranh dành nhau các mỏ dầu.

Trong tiến trình lịch sử, muối ăn đã có ảnh hưởng tới diễn biến các cuộc chiến,đế chế Mali,các thương nhân ở Timbuktu thế kỷ 12 ,cánh cửa tới sa mạc Sahara và trung tâm văn học-đánh giá muối có giá trị đến mức chỉ có thể mua nó theo trọng lượng tính đúng bằng trọng lượng của vàng; việc kinh doanh này dẫn tới truyền thuyết về sự giàu có khó tưởng tượng nổi của Timbuktu và là nguyên nhân dẫn tới lạm phát ở châu Âu, là nơi mà muối được xuất khẩu tới. (INTERNET)

Ảnh Tiệc Ly chạm khắc trên muối trong hầm mỏ muối Wieliczka, Ba Lan. Hầm mỏ dài trên 300 km mang dáng dấp như một mê cung sâu dưới lòng đất hơn 300mét.

           “Các con là ánh sáng trần gian”



Và ánh sáng ấy được thể hiện bằng chính đời sống của chúng ta qua việc thực thi Lời Chúa. 
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv 119, 105). 
Bước đi trong ánh sáng ta mới có thể là “tấm gương sáng” phản chiếu ánh sáng của Chúa Ki-tô chiếu dọi đến mọi người . 
Để thiên hạ thấy việc làm của chúng ta là những việc làm cho “danh Cha cả sáng”, mà ngợi khen Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời. 
“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng” (Mt 6, 9 - 1).

“Sự sáng của các con phải chiếu dọi để thiên hạ nhìn thấy việc lành các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).

Mọi việc làm của chúng ta đều để mọi người nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa là Người Cha Nhân Hậu – Một Người Cha Giàu Lòng Thương Xót. Và trong mọi việc làm nào đó, coi chừng, ta dễ chìm đắm trong những lời khen ngợi mà thiên hạ dành cho ta, và vì thế nó không phản chiếu được cội nguồn mọi vinh quang là Thiên Chúa.

Có một vị vua nọ nghe tin ở một vùng quê xa xăm kia bị thiên tai gây thiệt hại trầm trọng, nạn thiếu ăn và nghèo đói tràn lan. Vua sai một vị quan đến tận nơi, mở kho lương thực đến cứu giúp dân. Đời sống người dân nhờ đó mau chóng trở lại bình thường. Họ hết lòng cám ơn vị quan nọ với những lời trân trọng .

Vị quan ôn tồn nói: “Tất cả là ơn lộc của Nhà Vua .Vị Minh Quân của thần dân đã thi ân cho các người . Ta không có gì cả.

 Còn tình yêu nào mặn nồng bằng tình yêu Giêsu 
Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: 18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Chúa. Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4,17-21).

Còn tình yêu nào mặn nồng hơn tình yêu Thập Giá




Noi gương Chúa người Kitô hữu chúng ta hảy đến với tha nhân với một Tình Yêu Thập Giá, hầu ướp mặn một thế giới mà tình người đã nhạt nhòa, lạt lẽo, lạnh lùng.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói “Nơi nụ cười, lời nói và việc làm của Mẹ Têrêsa, Chúa Giêsu lại bước đi trên các nẻo đường thế giới như người Samaritanô Nhân Lành”.

Là “muối cho đời”, là chính cuộc đời ta trở thành những trang Phúc Âm sống động, ướp mặn một thế giới rã rời với những con tim lạnh nhạt tình người.

Mẹ Tê-rê-sa là một thí dụ gần nhất trong thời đại chúng ta.

“Mẹ Têrêsa đã sống cho người nghèo. Thế nhưng, giờ đây thế giới đã trở nên nghèo hơn nữa từ lúc Mẹ từ trần, Mẹ đã không thể chống trả nổi cuộc tấn cống cuối cùng của bệnh tim và đã chết tại nhà mà Mẹ và chị em của Mẹ đã sống ở Calcutta từ thập niên 1940. Mẹ hưởng thọ 87 tuổi và dung nhan của Mẹ, nhỏ nhắn như toàn thân của Mẹ, và hết sức nhăn nheo, đã trở thành một thứ tuyệt phẩm của đức bác ái cũng như của việc Mẹ hoàn toàn hiến thân cho kẻ khác. 
Mẹ được gọi là Mẹ của kẻ nghèo. Thế nhưng, ngay trong số các hình thức khác nhau của bần cùng, Mẹ Têrêsa đã sống đến mức độ tận cùng, như tình của Mẹ đã triệt để và hoàn toàn yêu Chúa Kitô. Mẹ đã muốn sống với thành phần nghèo nhất trong các người nghèo, và trong cuộc tìm kiếm này Mẹ đã làm cho thế giới, kẻ có tín ngưỡng cũng như vô tín ngưỡng, đọc được những trang Phúc Âm sống động, một thứ Phúc Âm tác động giữa những chiếm đoạt và mẫu thuẫn của thời đại chúng ta.
 Cái chết của Mẹ Têrêsa đã gây xúc động và đau buồn sâu xa khắp thế giới. Đức bác ái của Mẹ đã lưu dấu vết ở hết mọi lục địa 

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (Mt.5,14).

Ánh sáng ấy được thắp lên từ Ánh Sáng Chúa Ki-tô. Như những vì rực sáng rực nhờ tiếp nhận ánh mặt trời. Người Ki-tô hữu không tỏa sáng tự mình và vì mình, mà tỏa sáng nhờ Chúa và vì Chúa.

Cả thế giới ca tụng Mẹ Tê-rê-sa ngay khi Mẹ còn sống:

Nhưng, trên đỉnh vinh quang đó, Mẹ luôn nghĩ về nguồn sáng đã dọi chiếu vào đời mình, để tiếp nhận và chiếu dọi ánh sáng đó đến với mọi người.

 Mẹ Têrêsa đã ghi lại dấu ấn trong lịch sử thế kỷ của chúng ta: Mẹ đã can đảm bênh vực sự sống; Mẹ đã phục vụ tất cả mọi người, bao giờ cũng đề cao phẩm giá của họ và lòng trọng kính đối với họ; Mẹ làm cho ‘những ai bị mát mát sự sống’ cảm thấy sự êm ái dịu dàng của Thiên Chúa, cảm thấy Người Cha yêu thương tất cả mọi tạo vật của Ngài. Mẹ đã làm chứng cho Phúc Âm bác ái, một Phúc Âm được nuôi dưỡng bằng việc tự nguyện ban phát bản thân mình cho đến chết… 

 Mẹ Têrêsa là tấm gương cho mọi Kitô hữu chúng ta noi theo.Xin cho chúng con như vì sao nhỏ rực sáng Tình Mẹ chiếu soi tình người trên thế giới hôm nay .

                                   Ngày 24 tháng 9 năm 2014






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét