LINH ĐẠO DÒNG PHAN SINH TẠI THẾ (OFS) SỐNG PHÚC ÂM ĐỨC GIÊSU KITÔ-ĐI TỪ PHÚC ÂM ĐẾN CUỘC SỐNG-VÀ TỪ CUỘC SỐNG ĐỀN PHÚC ÂM

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2014

LỄ THÁNH GIA .NĂM B



ALLELUIA: Cl 3, 15a. 16a
Alleluia, alleluia! - Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. - Alleluia.

BÀI PHÚC ÂM: Lc 2, 22-40
"Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết trước khi thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
 Đó là lời Chúa.


Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình nghèo. Ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ thơ khác, như mỗi người chúng ta. Và cha mẹ Ngài cũng là những người lao động, phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác.
 Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ, bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván.
 Ba mươi năm tại Nagiarét là một chuỗi ngày bình dị, như hàng trăm gia đình cùng thôn làng .
Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống hiếu thảo với cha mẹ trần thế của Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh.
 Rồi cha mẹ Ngài là những người kính sợ Thiên Chúa cũng đã sống hết mình với Thiên Chúa, tận tụy và thương yêu con cưng của mình.
 Giữa Đức Maria và Thánh Giuse thì thật là một mối liên hệ có một không hai trong lịch sử loài người, chắc chắn tình yêu thương đậm đà và lòng tôn kính là những nét đặc thù nhất, khiến Thánh Giuse được gọi là người công chính, còn Maria là người có phúc hơn mọi người phụ nữ.

Sách Huấn ca hôm nay đã nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người con đối với cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái nhà Nagiarét. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê đề cập đến mối quan hệ giữa những người được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình, gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. 
Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các thành viên trong gia đình thánh này đều là những tôi tớ của Thiên Chúa, trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt.

 Gia đình Nagiarét là gương mẫu, là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, đối với mỗi gia đình Công giáo ngày nay.

Xin Chúa giúp chúng con theo gương Chúa sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính ông bà cha mẹ ở trần gian và sống tình huynh đệ với mọi người. Biết vâng giữ luật Chúa, luật Hội Thánh và các luật lệ chính đáng trong xã hội.Amen.



Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG B.TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA


  
             
                     TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA
26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà."29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

30 Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."

34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! "

35 Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."

38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
Đó là lời Chúa.Tạ ơn Chúa.



 Chúa nhật tuần 4 này ta nghe tường thuật theo tin mừng Luca về việc truyền tin cho trinh nữ Maria ở Nazarét. Người trinh nữ này được xác định rõ là đã đính hôn với Giuse thuộc chi họ Đavít, và tên của bà là Maria.

Trong tường thuật của Luca, ngay từ lời chào của sứ thần dành cho trinh nữ Maria không phải chỉ là một lời chào thông thường mà là cách nói lên tình trạng rất lạ lùng  đầy ơn phúc, Chúa ở cùng bà”. Đây là một tên mới dành cho Maria. Maria là người trinh nữ được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn đặc biệt bằng mọi ơn sủng để Maria không hề ở dưới bóng dáng của tội lỗi mà ngược lại luôn ở trong sự kết hợp ân sủng mật thiết với Thiên Chúa để có thể cộng tác hiệu quả vào việc đón nhận con Thiên Chúa nhập thể làm người. Đồng thời thiên sứ cũng giải thích lý do của việc thăm viếng bằng cách báo cho Maria biết bà sẽ thụ thai và sẽ sinh con trai và con của bà sẽ được gọi là con Đấng Tối cao, và sẽ thừa hưởng ngai vàng Đavít tổ tiên người.

Đứng trước một ơn trọng đại như thế, được phúc làm mẹ của người con sẽ được thừa hưởng ngai vàng Đavít
. Nhưng Maria đã rất khiêm tốn và chân thành hỏi làm sao điều này có thể xảy ra. Sứ thần đã giải thích rằng Maria mang thai do quyền năng Thánh Thần, và người con bà sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Sau cùng Maria đã hết lòng ưng thuận với tâm tình khiêm tốn vâng theo thánh ý Chúa. 
Mầu nhiệm giáng sinh muốn nói chân lý này: đây không phải là sự sinh hạ bình thường do bởi sự kết hợp vợ chồng, nhưng đây là việc Thiên Chúa đến với con người, nhập thể làm người và trở nên bé nhỏ để ở trong lòng một trinh nữ, đón nhận một sự sinh hạ bình thường như mọi trẻ thơ. 
Chỉ có điều là hài nhi này được cưu mang bởi một trinh nữ và do tác động quyền năng của Thánh Thần làm cho chúng ta hình dung một sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại. 

Về vai trò của Trinh nữ Maria, chúng ta có thể nhìn ngắm đây là công trình của ân sủng Thiên Chúa. Maria là người đi trước chúng ta trong sự tự do đáp lại lời mời gọi của ân sủng. 
Từ khi nguyên tổ phạm tội, trái đất dường như khép kín lại trong tội lỗi và sự ích kỷ của mình, không muốn đón nhận mọi hoạt động của ân sủng Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn nhẫn nại khơi lại nơi trái đất những con người sẵn lòng để đón tiếp Thiên Chúa.
 Maria, một người trinh nữ nhỏ bé trong nhân loại, đã đi trước mọi người  trong tiếng thưa vâng thực là tinh khiết đến độ chúng ta có thể reo vui để nói rằng sự sống đã chiến thắng những bóng tối tội lỗi và kiêu căng.
 Sự khiêm nhường vâng phục của một người nữ là Maria đã chiến thắng sự kiêu căng bất vâng phục của Evà xưa để cho Thiên Chúa  nhập thể trong lòng trinh khiết của Maria.


Cầu nguyện: Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin giúp con biết noi gương Mẹ nói lời “Xin vâng” trước lời mời gọi của Chúa, trong niềm hy vọng, cậy trông nơi Chúa.Tạ ơn Chúa.





Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

GIOAN TIỀN HÔ.NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG




Thánh Gioan Tiền Hô làm nhiệm vụ dọn đường cho Chúa Giêsu  loan tin với thái độ đầy tin tưởng và khiêm tốn:
 Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người.
Gioan cũng chuẩn bị tâm hồn con người của ông qua phép rữa trên sông Giođan, nhưng cùng một cung cách loan tin khiêm tốn:
 Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.

Sự khiêm tốn của Thánh Gioan phát xuất từ tâm hồn đạo đức chìm sâu trong suy niệm, ăn chay sám hối và đợi chờ Đấng Cứu Thế. 

Ngài biết rõ mình chỉ là tạo vật nhỏ bé ẩn dật trong rừng sâu để trở thành dụng cụ loan tin của Chúa, đóng góp vào công cuộc cứu chuộc của Ngài .


Chúa đã cho ông được diễm phúc chứng kiến Mầu Nhiệm Ba Ngôi vĩ đại khi Chúa Giêsu đến với ông để chịu phép rửa: Chúa Thánh Thần trong hình bồ câu đậu trên mình Chúa Giêsu, cùng với tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống:
 Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha. 

Phép rửa của Chúa Giêsu với Gioan Tiền Hô là khởi đầu công cuộc rao giảng của Ngài về Thiên Chúa Ba Ngôi: 
 Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Mầu nhiệm này đã không được Thiên Chúa mạc khải trong Cựu Ước, phải chờ đến Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, loài người mới được Ngài dạy cho để họ không bị lầm lạc.
Qua hình ảnh Chúa Ba Ngôi trong Phép Rửa tội ,  Gioan Tiền Hô đã phải chuẩn bị cả đời mình trong khiêm tốn, mới xứng đáng được chiêm ngưỡng sự huy hoàng và tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người qua Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà Gioan được soi sáng gọi là Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian. 

Với chi tiết này, Phép Rửa được báo hiệu như Bí Tích Thanh Tẩy tội lỗi: Tội tổ tông và tội riêng mỗi cá nhân qua muôn thế hệ. 
Sự  huyền nhiệm Phép Rửa đã khiến Gioan Tiền hô xác nhận:
 Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần. 
Do đó, các yếu tố, Nước, Thánh Thần, và thân phận Đức Kitô đã làm nên mầu nhiệm Phép Rửa.

Suy niệm về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan, người Ki tô hữu cũng nên hỏi lại tính cách nhân chứng của mình trong Bí Tích Rửa tội đã lãnh nhận:

 Hình ảnh Chúa Ba Ngôi có sáng ngời và trở thành ưu tiên cho mọi hơi thở và mọi hoạt động trong hành trình đức tin và cuộc sống của mình không?

 Hãy sống khiêm tốn như Gioan Tiền hô, người tín hữu sẽ nhận được sức mạnh và ơn Chúa Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức để chu toàn nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng, là khởi sự và cũng là cùng đích cuộc đời người Ki tô hữu.Tạ ơn Chúa.


Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

LỊCH SỬ HANG ĐÁ GIÁNG SINH






Hang đá Giáng sinh được bắt nguồn từ Thánh Phanxicô Khó Khăn thành Assisi. Phanxicô (1181-1226) trước hết là vị thánh của nhân đức khó nghèo. Vì vậy, ngài có biệt danh là ‘’il Poverello’’ (người nghèo khiêm hạ).

Tuy là vị thánh lập Dòng các Anh em hèn mọn (Ordre des Frères mineurs, viết tắt : OFM), ngài tự nguyện là phó tế vĩnh viễn. Hang đá Bê Lem là biểu tượng của khó nghèo.

Vì vậy, thánh nhân yêu mến lễ Giáng sinh. Chính Ngài đã nghĩ ra việc dựng máng cỏ Noël để tôn kính Chúa Hài đồng và Thánh gia.

Năm 1223, thánh nhân từ thành Assise đến Rôma để thỉnh cầu Đức Thánh Cha Honorius IV (1210-1287) phê chuẩn luật dòng. Nhân dịp này, Đức Hồng y Hugolin mời thánh nhân dùng bữa trưa cùng với một số vị khác. Thánh nhân tới bàn tiệc, rút trong tay thụng nâu vài mẩu bánh mì đen bình dân vừa xin được ngoài phố, mời các vị khách. Vị giáo chủ không vui trước việc làm của thánh nhân, vì ngài khoản đãi bữa tiệc theo nghi lễ (repas protocolaire). Nhưng tất cả đều vui lòng san sẻ cùng thánh nhân bánh mì xin được. Sau bữa tiệc, vị giáo chủ nói với thánh nhân :

- Người anh em ơi, tại sao lại làm ta phải cực lòng vì phải ăn xin, trong khi con là khách quý của ta ? Con không biết nhà ta chính là nhà của con, và những gì có trong nhà này là của con hay sao ?

- Lạy Ngài, thánh nhân lễ phép thưa lại, bởi vì không có gì làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn nhân đức Khó nghèo. Không phải là con muốn làm Ngài phải xấu hổ. Trái lại, con muốn làm vinh danh Ngài nên nghênh đón Chúa ngự trong nhà Ngài. Thiên Chúa đã chấp nhận sống nghèo ở trần gian chỉ vì yêu mến chúng ta.

- Con ơi, ĐHY Hugolin ôm chầm lấy thánh nhân nghẹn ngào nói tiếp, con cứ làm theo ý con đi. Bởi vì, thật rõ như ban ngày, Thiên Chúa ở cùng con. Chính Ngài đã dẫn dắt đường đi nước bước của con.

Sau mẩu đối thoại làm xao xuyến lòng người vừa kể, xin trở lại hang đá của thánh nhân. Theo tác giả Omer Englebert, hai tuần lễ trước Giáng sinh năm 1223, trên đường từ Rôma về Assise, thánh nhân dừng chân ở thị trấn Greccio (khoảng giữa đường từ Roma tới Assise), và gặp Jean Velita, một điền chủ giầu có vừa từ bỏ binh nghiệp để nhập dòng. Kế cận Greccio là dải núi đá bao quanh một thung lũng rộng. Trên núi đá thẳng đứng có một cái hang, được che khuất bằng một hàng cây. Phanxicô nói :

‘Ta mong ước cử hành lễ Giáng sinh để suy tôn Chúa ra đời ở

 Bê Lem, nhưng làm sao thể hiện được nỗi cơ cực và khổ đau của Ngài ngay từ thuở còn thơ để cứu chuộc nhân loại. Vì vậy, ta xin con làm một hang đá giống như thật với cỏ khô. Con dẫn theo một con lừa và một con bò, giống như bò lừa đã chầu quanh Chúa Hài đồng năm xưa.’’

Theo Celano kể lại, trong đêm Noël, các anh em ẩn sĩ quanh vùng và dân làng đốt đuốc sáng trưng địa điểm hành lễ. Đoàn người lặn lội men theo đường núi gập ghềnh, khúc khuỷu tới trước hang đá. Bao nhiêu hang động xung quanh dội lại lời ca nguyện của các thầy trợ sĩ, chen lẫn đồng ca điệp khúc của cộng đoàn. Thánh lễ cử hành trên một bàn thờ treo. Thánh nhân bận chiếc áo thụng (dalmatique) của thầy phó tế, giúp vị chủ lễ. Ngài hát bài phúc âm, công bố Tin Mừng cho những người thiện tâm và chia sẻ lời Chúa. Ngài dùng những lời dịu ngọt để nhắc lại sự tích vị ‘‘Hoàng đế nghèo’’ sống trước thánh nhân 12 thế kỷ, chào đời ở Bê Lem. Người ta kêu ngài là Giêsu, hoặc Hài đồng Bê Lem (Enfant de Bethléem). Thánh Phanxicô bắt chước tiếng chiên lừa khi phát âm hai tiếng : ‘’Bethléem’’ (prononçant Bethléem comme un agneau qui bêle). Jean Velita kể lại lúc thánh nhân bắt chước tiếng chiên lừa, hài nhi Giêsu đang ngủ yên trong hang đá chợt thức giấc, nhoẻn miệng cười.

Trong bút ký của thánh Bonaventura có đoạn chép rằng : ‘‘Ba năm trước khi từ trần, thánh Phanxicô quyết định mừng lễ Giáng sinh trọng thể. Sau khi được Đức Thánh Cha cho phép, Ngài sai làm máng cỏ, bảo người mang cỏ khô và dẫn một con lừa và một con bò.
 Máng cỏ Greccio đã ban ơn thiêng cho nhiều người và cho cả những gia súc bị bệnh tới gậm cỏ khô.

Kể từ máng cỏ đầu tiên tại Greccio (1223), hàng năm, tại các giáo đường và tư gia trên khắp thế giới, người ta lại bầy máng cỏ cùng với cây thông để mừng lễ Giáng sinh.




Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2014

THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ.BỔN MẠNG CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO 3/12





           "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?"


 Lời Chúa trongTin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.

Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay 3 tháng 12 Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.

Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.

Năm 1537,  3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, ngày 2/12/1552 thánh nhân ngã bệnh  đã qua đời trong kiệt sức, tại một đảo Tân Châu (sancian) cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn. Xác ngài được đem về mai táng tại thành Goa bên Ấn Độ.

Ðúng 70 năm sau, Ðức Grêgôriô XV đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh (1622). Và đến năm 1904, Ðức Thánh Cha Piô X đặt ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả mọi người .

Sống ở đời, ai cũng cần phải có một lý tưởng. Lý tưởng đó nuôi dưỡng và hướng dẫn con người sự kiên trì trong cuộc sống.
 Lý tưởng của bạn là gì? Tiền tài, danh vọng hay lạc thú? Tất cả những điều đó rồi cũng sẽ đưa  đến thất vọng, chán chường. 
Duy chỉ có mình Chúa mới có thể lấp đầy những trống vắng trong tâm hồn và giúp chúng ta vượt được bao gian nguy trong cuộc sống... 
Bạn muốn lấp đầy tâm hồn bạn với hận thù,  và cau có ư ?
Hãy trục xuất Chúa ra khỏi tâm hồn bạn... 
Bạn muốn được sự bình an đích thực và một tâm hồn minh mẫn thư thái ư ? 
Hãy để cho Chúa chiếm ngự tâm tư bạn một cách trọn vẹn...
Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này.
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta.
Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.


PHANXICÔ XAVIÊ
Quan thầy truyền giáo chuyên về phương đông
Phương bình minh toả ánh hồng
Ngài là tia sáng mãi không lịm tàn.

Lạy ơn Thánh cả Quan Thày
Một đời khắc khổ chứa đầy hy sinh
Một đời truyền giáo quên mình
Một niềm khát vọng cứu linh hồn người
Chúng con đồng kính dâng lời
Xin Người bảo trợ cuộc đời chúng con
Đoàn con nguyện hứa sắt son
Một đời tin mến vẹn tròn thiết tha,
Một đời thành kính hoan ca
Chuyên chăm sốt sắng, hài hoà yêu thương,
Theo Thày chí Thánh là Đường
Ngước nhìn Thánh giá, noi gương hiến mình
Yêu người tha thiết thực tình
Tông đồ nhiệt huyết cứu linh hồn người
Ngày nay nhuộm thắm ơn trời
Ngày sau hạnh phúc muôn đời .


Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Phanxicô Xaviê, xin Chúa ban cho chúng con một tâm hồn quảng đại, đơn sơ khó nghèo, và lòng nhiệt thành phụng sự Chúa nơi anh chị em đồng loại. Amen.





Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

CÂU CHUYỆN CHÚA GIÁNG SINH













ƠN GỌI KITÔ HỮU

**** 


Chúa Giêsu trong cuộc sống công khai thi hành sứ vụ, nỗi ưu tư của Ngài là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian. Chính vì thế mà ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài đã chọn cho mình những môn đệ.

TrongTin Mừng Matthêu cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi Phêrô và Andrê: Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gioan. Thái độ của những môn đệ đầu tiên này thật là mau mắn và dứt khoát. Các ông đã bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già mà đi theo Chúa.

Ngày hôm nay Chúa không hiện ra để kêu gọi hay truyền dạy phải làm điều nọ, điều kia, nhưng tiếng Chúa vẫn âm thầm gởi đến với  ta qua các sự kiện, qua các biến cố cuộc đời. 

Bởi vì mỗi biến cố là một dấu chỉ của thánh ý Chúa.
 Mỗi một sự kiện là một bài toán mà đáp số là sứ điệp Chúa muốn  ta đón nhận. Vì thế, cần phải tỉnh thức để nhận ra ý Chúa và sứ điệp của Ngài.

Thực vậy có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa mời gọi, một thứ tiếng vọng lên từ bên trong tâm hồn, tuy âm thầm nhưng rất rõ,  Đáp lại tiếng Chúa là bước vào một khúc quanh mới của đời mình và từ đó bản thân được đổi khác.

Ơn gọi của Mẹ Têrêsa Calcutta là một minh chứng. Mẹ sinh năm 1910 tại Nam Tư. Năm 18 tuổi Mẹ nhập dòng Đức Bà Lorettô ở Ái Nhĩ Lan. Sau đó được cử sang Ấn Độ để vào tập viện. Mẹ đã cống hiến gần 20 năm trời cho việc dạy môn địa lý tại một trường của nhà dòng dành cho các thiếu nữ thuộc những gia đình khá giả. Nếu Chúa không lên tiếng gọi, thì chắc cuộc đời Mẹ sẽ trôi đi êm đềm bên đám học trò giàu có. Thế rồi vào một ngày nọ, nhân đi qua một đường phố ở Calcutta, Mẹ bắt gặp một người đàn bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột và kiến đã kéo đến gặm nhấm con người bất hạnh đó. Mẹ liền vực người thiếu phụ tới nhà thương. Mẹ nhất định cứ đứng ở trước cổng cho đến khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân sắp chết. Từ biến cố này Mẹ cảm nhận được lời mời gọi của Chúa, muốn Mẹ hiến mình cho những kẻ bị bỏ rơi. Và thế là Mẹ xin ra khỏi dòng, đến sống ở một khu vực tăm tối của thành phố. Chắc hẳn lúc đó, Mẹ không ngờ mình sẽ là người sáng lập một hội dòng mới chuyên lo việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ.

Lắng nghe và tìm biết ý Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện đã đành. Điều quan trọng hơn là có dám đáp trả lời mời gọi của Ngài hay không. Nhiều khi đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ như không hề nghe thấy tiếng Chúa, để khỏi phải đáp trả, khỏi phải từ bỏ. 
Bởi vì chúng có quá nhiều những sợi dây vấn vương quấn chặt lấy cuộc đời và bản thân, khiến ta không dễ gì tháo gỡ được. 
Những sợi dây vấn vương ấy là tiền bạc, địa vị, vui thú... Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Chúa là giá trị tuyệt đối, vượt lên trên tất cả. Và như thế phải có tình yêu mãnh liệt mới có thể từ bỏ những gì  ta đang ôm ấp bởi vì từ bỏ là thước đo tình yêu đối với Chúa.

“Màn đêm u tối” của cuộc đời còn đó. Dục vọng của lòng người còn đây. Cuộc sống thác loạn và đạo đức suy đồi đã nhấn chìm biết bao cuộc đời yếu đuối. Người ta cứ đua nhau chạy theo ảo ảnh, cuốn hút theo những trào lưu hưởng thụ hạ đẳng,

Chúa Giêsu .Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.Amen.



Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

ĐỨC MẸ MARIA HÀNH TRÌNH MÙA VỌNG .CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG .B






Tin Mừng Mc 13,33-37

Hôm ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”



                 ĐỨC MARIA HÀNH TRÌNH MÙA VỌNG

“Còn chính Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà” (Lc.2,35).

                             

         Mùa vọng, mùa chờ đợi Đấng Cứu Tinh xuống thế trần.


Với mọi người tín hữu, mùa vọng là mùa chờ mong Chúa đến, là mùa trông đợi sự an bình sẽ được ban cho khắp thế nhân, là mùa nhìn lại quá khứ đời mình để kịp thời chỉnh đốn lại đời sống nội tâm đối với Chúa , là mùa hòa giải để tìm lại sự gắn bó yêu thương trong ứng xử với nhau nơi cộng đoàn, nơi thôn xóm 

Đọc nhiều tác phẩm viết về cuộc đời Mẹ, con chưa thấy một tác giả, một thi sĩ hay một nhà nghiên cứu nào cho rằng Mẹ luôn hoài vọng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, mà chỉ thấy nơi Mẹ một sự trông chờ Đấng Cứu Độ đến giải thoát muôn dân .

 Ngay cả khi biết mình được chọn, Mẹ cũng chẳng hé môi cho bất  cứ người thân nào.
 Mẹ âm thầm lặng lẽ gẫm suy để tìm ý Chúa. 
 Mẹ ẩn thân nơi mái ấm nghèo nàn. 
 Mùa vọng của Mẹ không ngắn gọn như một chu kỳ phụng vụ từng  năm, mà nó kéo dài suốt cả hành trình trong cuộc lữ hành trần thế của Mẹ.

Mùa vọng là mùa hướng về tương lai, một tương lai ngập tràn ơn thánh và hạnh phúc. Nhưng nhìn vào đời Mẹ, con thấy sau lời
“xin vâng” mẹ đã bước vào một mùa vọng với những đau thương không tưởng nổi.
Ngay từ đầu khi đồng ý với lời mời gọi của Thiên Chúa, cuộc đời của Đấng Cứu Thế và Mẹ đã được đánh dấu bằng Thập Giá khi ông lão Si-mê-on báo với Mẹ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà” (Lc.2,34-35).


Chưa sinh Chúa, Mẹ đã nếm mùi khổ giá vì sự nghi ngờ của những người thân mà không thể giải bày. Niềm vui sinh con chưa được mấy hôm thì ngay lập tức cha mẹ con cái phải bồng trống vượt muôn khổ ải để tránh sự hằn thù của bạo Chúa hung hăng. Từ đó, mẹ luôn cảm nhận lời của ông lão Si-mê-on bám chặt đời mình, sự khổ đau luôn chờ đợi mình. 

Cả đời Mẹ là một mùa vọng trong đau thương. Mẹ chờ mong ơn cứu độ và biết rằng, để có được ơn đó, Mẹ và con Mẹ đã phải sát tế chính đời mình để ý của Thiên Chúa được nên trọn, trong hành trình mùa vọng đời mình, Mẹ không kêu ca, không rên rĩ. Mẹ vẫn bình tâm chấp nhận. 
Sóng gió vây bũa, Mẹ vẫn lặng lẽ nhìn những hoạt động, nghe những lời nói của con mình để chiêm ngắm, để gẫm suy, để khám phá và để cùng con mình khai phá một nẻo mùa vọng cho nhân thế


Lạy Mẹ từ nhân,

 Mẹ chính là thầy dạy về “niềm tin và hy vọng” cho chính bản thân  con, con như đang nghe tiếng Mẹ khuyên nhủ con:
 Con đang tiến  từng bước trên nẻo đường mùa vọng đời mình.
 Hãy can đảm san bằng những tự phụ âm thầm trong con.
 Hãy uốn cho ngay những lời nói của con khi đối đáp với mọi    người.
 Hãy lấp đầy những hố sâu nghi kỵ trong con khi tiếp xúc với tha  nhân.
 Hãy bạt xuống những tham vọng trong con những tiện nghi thế  tục. 
 Biết rằng khó, nhưng để đạt được hạnh phúc Nước Trời, con phải  sát tế chính mình và tự hiến toàn thân dưới chân Thập Giá của thầy  chí thánh.

 Chỉ khi nào con làm được như vậy, con mới hiểu thế nào là mùa  vọng mà Mẹ đã trải qua nơi trần thế này.

 Cảm ơn Mẹ đã cho con có giây phút thinh lặng giữa khoảng thinh  không vắng lặng trước bàn thờ nhà con,để con nghe được lời Mẹ  bảo ban. 

Xin cho con bước vào mùa vọng thánh thiêng này trong tâm tình tri ân cảm tạ Thiên Chúa vì con hiểu được rằng: 
Đời của con là một chuỗi ngày mùa vọng nối kết cho đến khi được cùng Mẹ bình tâm trên đồi Can-vê để mừng cho mầu nhiệm Giáng Sinh đã trổ hoa cứu độ trong tia nắng phục sinh .Amen.








Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014

.XIN MẸ THƯƠNG CÁC LINH HỒN










Trong Tháng 11 , tháng cuối cùng của Năm Phụng Vụ, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta nhớ đến những người đã ra đi .
Trong số đó, có những vị đã được thưởng công trên nước trời, đó là các vị “đã nên thánh”, mà Giáo Hội kính chung vào ngày
 Lễ CÁC THÁNH (01/11); có những người còn đang được thanh tẩy trong Luyện ngục mà chúng ta cầu nguyện chung cho họ vào ngày Lễ CÁC LINH HỒN (02/11). Tháng 11 cũng thường được gọi là THÁNG CÁC LINH HỒN và là tháng để chúng ta cầu nguyện nhiều cho các linh hồn nơi luyện ngục. Tất nhiên không phải chúng ta chỉ cầu cho các linh hồn quá cố vào tháng 11; nhưng vẫn nhớ đến các bậc tổ tiên, ông bà, cha me và bà con thân thuộc, các linh hồn ‘mồ côi’ trong các Thánh Lễ và kinh nguyện hằng ngày ; đặc biệt trong các Ngày Giỗ, ngày các vị đã ra đi khỏi cuộc đời này.

Tháng 11, tháng cuối cùng của Niên Lịch Phụng Vụ năm A (bước qua Chúa nhật I Mùa Vọng năm B ) cũng là tháng để chúng ta nhớ đến có một giờ phút nào đó sẽ ra khỏi cuộc đời này mà không ai  biết được lúc nào và cách nào. 
Điều đó không làm cho người Ki tô hữu bi quan về cuộc sống. Trái lại trong niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh và lên trời vinh hiển để mở đường ‘ về trời’ cho chúng ta, mà vẫn luôn vui sống cuộc sống hàng ngày. 


Tuy nhiên, trong niềm tin vào Chúa ta cần luôn  sẵn sàng đón chờ Chúa đến  bất cứ lúc nào (theo tinh thần bài Dụ ngôn “Mười Trinh Nữ” trong Bài Tin Mừng Chúa Nhật ***II (Năm A). 
Trong khi chờ đợi, người tín hữu cần dùng mọi thời giờ và những gì Chúa ban cho , tùy theo hoàn cảnh mỗi người, để ‘sinh lời’ là các ‘việc lành phúc đức’ (Theo tinh thần Dụ ngôn “Những Nén Bạc” trong Bài Tin Mừng Chúa Nhật ***III (năm A).
 Những điều  cần phải làm hơn cả, đó là giúp đỡ những người nghèo khó, không cơm ăn áo mặc, và nhũng nạn nhân do thiên tai, chiến tranh, khủng bố, và bịnh nhân…(Đó là tinh thần Dụ Ngôn “Cuộc Phán Xét Cuối Cùng” của Bài Tin Mừng Chúa Nhật cuối cùng trong Năm Phụng vụ, Lễ Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ (Năm A) : 

“Khi Ta đói các con đã cho Ta ăn,

“ khi Ta khát các con đã cho ta uống,

“ khi Ta bịnh hoạn, các con đã đến viếng thăm…

“ Vì khi các con làm như thế cho những người nghèo khó nhất của Ta đây, là các con đã làm cho chính Ta đó…

Vậy mọi tín hữu hãy luôn cầu nguyện chung cho nhau , để bao lâu còn sống trong cuộc đời này ,  ta luôn biết sống “khôn ngoan như Năm Cô Trinh Nữ Khôn Ngoan chờ Chàng Rể đến…” Tạ ơn Chúa.



Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

PHẢI THAM DỰ THÁNH LỄ NHƯ THẾ NÀO ?




                                         Xin bấm vào đây

Người Công Giáo phải tham dự Thánh lễ như thế nào ?
Giáo hội muốn con cái mình tham dự chứ không "đi xem, hay đi nghe lễ", mà là đi "dự Thánh Lễ" một cách tích cực, linh động, 

Hiến chế Phụng vụ viết:

"Giáo hội hằng bận tâm lo cho các tín hữu đừng tham dự Thánh Lễ như những khách bàng quang, câm lặng, nhưng nhờ hiểu thấu đáo mầu nhiệm đó qua nghi lễ và kinh nguyện sao cho họ tham dự hoạt động cách ý thức, thành kính và linh động, cho họ được đào luyện bởi Lời Chúa, được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa, biết tạ ơn Chúa" (PV 47).

Và nữa: "Để tham gia linh động, cần có những lời tung hô của dân chúng, những câu đối đáp, những bài thánh vịnh, thánh ca, và cả những động tác những cử chỉ, thái độ của thân xác. Cũng cần giữ sự thinh lặng thiêng liêng đúng lúc" (PV 30).

Bởi vì tính cách cao quí của Thánh Lễ là sự trao đổi giữa Chúa Tình yêu và các con cái của Người: "Trong Phụng vụ, Chúa nói với dân Chúa qua Lời Chúa, còn dân Chúa đáp lại Chúa qua tiếng hát lời kinh" (PV 33), nên rất cần sự hiện diện, linh động và cảm mến.

Ngoài lợi ích thiêng liêng cho lòng sùng mộ của con cái Chúa, Thánh Lễ còn có lợi ích giữa các con cái Chúa với nhau, nhờ Thánh Lễ Chúa nhật, Giáo hội khuyến khích giáo dân "Phải gắng làm phát triển ý thức cộng đoàn giáo xứ, nhất là trong việc cử hành Thánh Lễ Chúa nhật" (PV 42).

Cách thức tham dự Thánh Lễ

*Tham dự trọn vẹn
Người tín hữu có bổn phận phải tham dự trọn vẹn thánh lễ trong các ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc.

Thánh lễ gồm hai phần.
 phần phụng vụ Lời Chúa 
và phần phụng vụ Thánh Thể, được liên kết với nhau một cách chặt chẽ đến nỗi chỉ làm thành một hành vi thờ phượng duy nhất (PV 56). Cho nên người tín hữu phải tham dự đầy đủ cả hai phần.

* Hiện diện và có ý thức


Tham dự thánh lễ có nghĩa là phải có mặt tại chỗ và phải có ý thức:

- Các tín hữu phải có mặt với cả thân xác để cử hành thánh lễ trong các ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc.

- Các tín hữu phải tham dự thánh lễ với lòng sùng kính với sự chú ý.

“Mẹ Giáo Hội tha thiết ước mong toàn thể tín hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn ý thức và linh động. Do chính bản tính, Phụng Vụ đòi hỏi việc tham dự như thế;” (PV 14).

Mọi người Công Giáo phải ý thức về tầm quan trọng của việc tham dự Thánh lễ. Nếu vắng mặt cho bất cứ phần nào hay toàn phần của Thánh lễ mà không có nguyên nhân thì được xem như đó là sự biểu thị của sự xúc phạm hay xem thường Thánh lễ.

Nghi thức thống hối (Penitential Rite) là phần của Thánh lễ. Nó tiếp theo sau bài ca nhập lễ, liền sau khi Linh mục tiến lên cung thánh và chào hỏi cộng đoàn. Nghi thức thống hối có thể dùng những mẫu khác nhau. Mẫu thông thường là Kinh Cáo Mình hoặc là :”Lạy Chúa xin thương xót chúng con”; hoặc là :”Anh chị em hãy nhìn nhận tội lỗi…”. Chúng ta đến sau những lời nguyện này là đến trễ cho Thánh lễ.
Do đó chúng ta phải cố gắng tham dự Thánh lễ cách trọn vẹn, hiệp thông với cộng đoàn dân Chúa. Nên đến sớm vài phút trước Thánh lễ để được nghe những tin tức của Giáo xứ hay những lời chỉ bảo quan trọng của Hội Thánh. Tham dự Thánh lễ từ đầu chí cuối là tỏ lòng tự trọng của chúng ta đối với Chủ tế nói riêng và cộng đoàn dân Chúa nói chung.

* Chúng ta thử nghĩ xem nếu đánh đổi sự ra về trước 5 hay 10 phút bằng lới chúc lành, chúc bình an của Thiên Chúa, chúng ta chọn diều nào !

TẠI SAO PHẢI THAM DỰ THÁNH LỄ NGÀY CHÚA NHẬT ?


                                                     



                                      Xin bấm vào đây

Tại sao người Công Giáo phải tham dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật ?

Từ những ngày đầu của Giáo Hội, người Kitô hữu hiểu rằng làm người Kitô hữu không phải là một vấn đề riêng lẻ. 
Là những Kitô hữu, có thể cầu nguyện riêng tư với Chúa trong suốt cả tuần, nhưng mẫu thức cầu nguyện chính  là cầu nguyện chung, cộng đoàn và hiệp thông. 

Do đó cầu nguyện riêng lẻ chưa đủ, đó là lý do Thánh lễ Chúa nhật vô cùng quan trọng và buộc đối với các người đã rửa tội và đến tuổi khôn.

 Công đồng chung Vatican II nói rõ khi nhắc đến Thánh lễ ngày Chúa nhật: “Thực vậy, trong ngày đó các Kitô hữu phải họp nhau lại để nghe Lời Chúa và tham dự Lễ Tạ Ơn, để kính nhớ cuộc Thương Khó, sự Sống Lại và vinh quang của Chúa Giêsu Kitô” (Hiến chế về Phụng vụ, V, 106).

Lệnh truyền của Gia-vê Thiên Chúa

Giới răn thứ 3 Gia-vê Thiên Chúa đã truyền cho Mô-sê trong sách Xuất Hành đó là :”Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh” (Xh 20:8)

Lệnh truyền của Chúa Kitô

Thánh lễ được Chúa Giêsu thiết lập tại bữa Tiệc Ly trước khi Ngài bị đóng đinh. Bữa tiệc cuối cùng này là Thánh lễ đầu tiên của Giáo Hội.
“Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Luca 22:14,19).

Lệnh truyền của Giáo Hội

Giáo luật điều 1247: “Vào ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc khác, tín hữu buộc phải tham dự thánh lễ, và hơn nữa, kiêng làm những công việc hay hoạt động làm ngăn trở sự thờ phượng Thiên Chúa, sự hưởng niềm vui riêng ngày của Chúa, hoặc sự nghỉ ngơi cần thiết cho tâm trí và thân xác.”

Giáo luật điều 1248: “Ai tham dự Thánh Lễ, cử hành theo lễ nghi công giáo bất cứ ở đâu, hoặc vào chính ngày lễ hay vào chiều ngày trước lễ, thì người ấy đã chu toàn việc buộc dự lễ.”

Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 2180 :”..ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc khác, các tín hữu có nghĩa vụ phải tham dự Thánh lễ”…”

GLGHCG 2181 :”Thánh lễ ngày Chúa nhật đặt nền và thửa nhận tất cả sinh hoạt Kitô giáo….Những ai lỗi phạm nghĩa vụ này một cách có suy nghĩ, thì phạm một tội trọng”

GLGHCG 2182 :”Tham dự việc cử hành chung Thánh lễ ngày Chúa nhật là một bằng chứng sự thuộc về và trung thành với Chúa Kitô và với Giáo Hội của Ngài. Nhờ đó, các tín hữu chứng tỏ sự hiệp thông với nhau trong niềm tin và trong đức ái. Họ cùng nhau làm chứng cho sự thánh thiện của Thiên Chúa, và cho niềm hy vọng ơn cứu độ của mình. Họ an ủi và khuyến khích nhau dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.”


Xin xem tiếp bài 2 :Phải tham dự Thánh lễ như thế nào ?


Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

VƯƠNG QUỐC CỦA ÁNH SÁNG VÀ TÌNH THƯƠNG







Vào năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập lễ Đức Kitô vua, mục đích là để xác định vai trò và chỗ đứng đặc biệt của Chúa Giêsu trong đời sống riêng tư của mỗi người, cũng như trong sinh hoạt của cộng đồng Giáo hội. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tước hiệu cao cả này.

Trước hết là trong Cựu Ước.
Với những thánh vịnh, vua Đavít đã cho chúng ta thấy Đức Kitô chính là vua, một vị vua hòa bình sẽ đến để cai trị trong yêu thương:

- Ta sẽ đặt một vị vua ở Sion, trên núi thánh của Ta.

Trong khi đó, tiên tri Isaia lại giới thiệu với chúng ta một vị vua đầy quyền năng:

- Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài, Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Ngài sẽ không bao giờ cùng.

Tiếp đến là trong Tân Ước.
Qua Tin Mừng, chúng ta thấy được nơi Đức Kitô hình ảnh ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài là một vị vua vinh hiển, điều khiển cả vũ trụ. Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ đến trên mây trời để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Chính Đức Kitô, trong những giây phút cuối cùng, đối diện với cái chết, Ngài vẫn xác quyết trước mặt Philatô

- Phải, tôi là vua.
Chính vì thế, bản án của Ngài đã được ghi:

- Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái.

Thế nhưng, tước hiệu Kitô vua nổi bật hơn cả trong bầu khí phụng vụ. Đúng thế, chúng ta có thể nói: Tất cả niên lịch phụng vụ đều xoay quanh chủ đề này.

Trong Mùa Vọng, chúng ta mong đợi một vị vua sẽ đến. 

Với lễ Giáng sinh, chúng ta không chỉ mừng kính một hài nhi bé nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, mà còn mừng kính một vị vua hòa bình. 

Nhất là với lễ Hiển linh, chúng ta nhìn thấy vị vua ấy xuất hiện và tỏ lộ vinh quang cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ Phương Đông.
Và chúng ta có thể tóm kết tinh thần của mùa giáng sinh, đó là Đức Kitô đến để thiết lập một vương quốc của ánh sáng và tình thương.

Bước vào mùa phục sinh, Giáo hội không phải chỉ dừng lại ở những đau khổ của Đức Kitô, nhưng qua những đau khổ ấy, Giáo hội còn nhìn thấy cả chiến thắng vinh quang của Ngài. 
Trong ngày lễ lá, chúng ta tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, một cách long trọng như một vị vua và chúng ta không ngừng tung hô:

- Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô Chúa trên các tầng trời.

Tiếp đến, ngày thứ sáu tuần thánh, ngày u buồn nhất của năm phụng vụ, chúng ta thấy Giáo hội đã nhìn thập giá như ngai tòa, như lá cờ của một vị vua đang tiến lên, như bước khởi đầu cho vương quốc của Chúa, như lời Ngài đã phán:

- Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.


Rồi trong ngày lễ Phục sinh và lên trời, chúng ta mừng kính cuộc khải hoàn của Đức Kitô, để rồi từ đó Ngài vĩnh viễn thiết lập vương quốc và trở thành vua của cả vũ trụ.

Niên lịch phụng vụ Giáo Hội luôn nhìn ngắm Đức Kitô như một vị vua. 
Đó cũng là điều mà toàn thể thế giới Công giáo ngày hôm nay tuyên xưng.
Đức Giêsu Kitô .Vua vũ trụ

Thế nhưng tuyên xưng mà thôi chưa đủ, mà còn phải sống điều chúng ta đã tuyên xưng, là phải trung thành và sống với Chúa bằng cách khử trừ mọi tội lỗi, bằng sống một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó góp phần làm cho vương quốc của Đức Kitô được mở rộng trên trần gian này. Tạ ơn Chúa



Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

CHÚA NHẬT XXXIV.TN.A-ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ







VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.

Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt. Không có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.

Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.

Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới. Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ thiết lập một vươn quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.

Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất. Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.

Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để làm.

Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.


object width="1" height="1">

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014

HỎA NGỤC




Tôi là một nữ tu, tên Faustina Kowalska, vâng theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, đến tham quan vực thẳm hỏa ngục để tôi có thể tường trình lại cho các linh hồn biết về nơi này và làm chứng nhân cho sự hiện hữu của hỏa ngục… Quỷ dữ đã oán ghét tôi tột cùng, nhưng chúng phải vâng lời tôi vì đó là mệnh lệnh của Chúa. 

Tất cả những gì tôi viết lại đây chỉ là một bóng mờ ảo so với những điều mà tôi đã được chứng kiến. Tôi nhận thấy một điều: đó là hầu hết những linh hồn đang ở đó đều là những người đã từng không tin là có hỏa ngục.” (Nhật ký số 741)

“Hôm nay, tôi được thiên thần dẫn đi cho nhìn thấy vực thẳm của hỏa ngục. Đây là chốn luyện hình rất đáng ghê sợ; nơi này rộng lớn và tràn ngập những cảnh tượng kinh hoàng! Những loại hình phạt tra tấn mà thôi đã nhìn thấy như:



Hình Phạt Đầu Tiên Mà Hỏa Ngục Tạo Ra Là:
- Sự mất Thiên Chúa hoàn toàn.

Thứ hai là:

- Sự dằn vặt hối hận của lương tâm.

Thứ ba là:
- Tình trạng của họ vĩnh viễn không thay đổi.


Thứ tư là:

- Ngọn lửa sẽ thiêu đốt linh hồn nhưng không tiêu hủy nó. Một sự đau đớn khủng khiếp vì đó là lửa thiêng liêng tinh tuyền, đốt cháy bởi cơn thịnh nộ của Chúa.

Hình phạt thứ năm là:

- Bóng tối triền miên vây bủa chung quanh và mùi hôi hám ngột ngạt rất kinh tởm, bất chấp bóng tối, quỷ dữ và những linh hồn bị đọa đày vẫn nhìn thấy nhau và thấy tất cả những điều nhơ nhớp, xấu xa của nhau và của chính họ.

Hình phạt thứ sáu là:

- Lúc nào quỷ Satan cũng ở kề bên.

Hình phạt thứ bảy là:
- Nỗi tuyệt vọng tột cùng, lòng căm hờn Thiên Chúa, họ thốt ra những lời nguyền rủa cực kỳ đê tiện, và phỉ báng.

Đó là những hình phạt đày đọa cực kỳ đau đớn, nhưng đó chưa phải là những nỗi đau đớn tột cùng.

Những sự đau đớn không ngôn ngữ diễn tả:
Có những hình phạt đặc biệt dành riêng cho nhiều linh hồn. Đây là những hình phạt thuộc về tri giác. Mỗi linh hồn phải trải qua sự hành hình và điều này tùy thuộc vào những tội mà họ đã gây ra (khi ở thế gian), những hình phạt rất kinh khủng không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được.

Tôi tưởng mình đã chết
Có những hang động và những vực sâu tra tấn và những nơi mà những hình thức đau đớn cùng cực khác biệt nhau. Nếu không có Thiên Chúa nâng đỡ cho tôi, thì tôi đã chết khi phải đối diện với những hình ảnh tra tấn này.

Không ai có thể khẳng định là không có hỏa ngục
Hãy kể cho những ai phạm tội biết họ sẽ vĩnh viễn chịu sự hành hạ, tra tấn bởi những tội mà họ đã thường xuyên gây ra. 
Mệnh lệnh của Chúa là muốn tôi viết lại những điều này, để không một linh hồn nào có thể bào chữa và khẳng định là không có hỏa ngục hoặc cho là chưa bao giờ có ai đã đến đó, vì thế không ai có thể tuyên bố đã biết hỏa ngục là như thế nào… Thật là ghê gớm cho những linh hồn phải chịu sự hành hạ đau đớn tại đó! Vì thế, tôi đã cầu nguyện bằng tất cả lòng nhiệt thành để những linh hồn tội lỗi biết ăn năn thống hối. 

Tôi không ngừng kêu nài lòng thương xót của Chúa đổ tràn trên họ. 
Lạy Chúa Giêsu, con thà phải chịu trải qua sự đau đớn cho đến ngày tận thế, ngay cả giữa những đau khổ nhất, còn hơn là xúc phạm đến Ngài dù là tội rất nhẹ.” (Nhật Ký số 741)

Nữ Tu Faustina Kowalska